TIẾP TỤC THỰC HIỆN HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC KẠN HIỆN NAY
Hiện nay, những mô hình kinh tế tập thể (KTTT),
hợp tác xã (HTX) đã và đang từng bước trở thành nhân tố tích cực đem lại giá
trị kinh tế cao. Phát triển KTTT, HTX không chỉ thúc đẩy chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất, tăng thu nhập cho thành viên, người lao động mà còn góp
phần vào công tác giảm nghèo bền vững, tiến tới hoàn thành mục
tiêu xây dựng nông thôn mới của các địa phương.
Để đẩy mạnh phát triển KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích, thúc đẩy phát triển, như: Chỉ thị số 27-CT/TU, ngày 24/3/2020 về nâng cao hiệu quả hoạt động của
kinh tế tập thể, hợp tác xã; Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 22/4/2021 về phát
triển KTT, HTX giai đoạn 2021 - 2025; Nghị quyết số 10/NQ-TU, ngày 22/4/2021 về
phát triển nông, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, mở rộng
liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2021 - 2025. Thể chế hóa sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị
quyết số 01/2022/NQ-HĐND quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa; hỗ trợ nâng cao năng lực cho khu vực kinh tế tập thể trên
địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Đây là Nghị quyết được ban hành để thay thế Nghị quyết số
08/2019/NQ-HĐND ngày 17/7/2019 về việc ban hành Quy định một số chính sách hỗ
trợ phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh; Nghị quyết số
10/2020/NQ-HĐND ngày 17/7/2020 về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quy
định một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
Bắc Kạn. Thực hiện các nghị quyết của HĐND tỉnh, hằng năm, UBND tỉnh đã xây dựng
các kế hoạch tổ chức thực hiện. Trên cơ sở đó, các sở, ban,
ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ đã cụ thể hóa và triển khai thực
theo quy định. Kết quả cụ thể như sau:
Về chính sách hỗ trợ, đào tạo: Đã thực hiện bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý HTX, thành viên HTX thuộc 270 hợp tác xã với
tổng kinh phí 1.185 triệu đồng. Tổ chức 08 lớp tập huấn,
chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho 08 HTX, đối
tượng là hộ dân tham gia liên kết và thành viên HTX. Hỗ trợ chuyển giao khoa học - công nghệ, tư vấn cho
26 doanh nghiệp, hợp tác xã đăng
ký danh mục dự án liên kết theo Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 -
2025. Trong đó, đã trực tiếp tư vấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho 04 HTX triển khai dự án liên kết.
Về chính sách nguồn vay
ưu đãi từ các quỹ: Hỗ trợ nguồn lực cho 43 HTX, tổng kinh phí 1.374,9 triệu đồng. Hỗ trợ vốn từ
qũy hỗ trợ phát triển HTX của tỉnh cho 47 hợp tác xã với số tiền 4.568 triệu
đồng và từ Qũy hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam cho 08 hợp tác xã vay vốn với số
tiền 5.339 triệu đồng. Kết nối từ nguồn vốn Quỹ hỗ trợ nông dân cho thành viên HTX
vay thông qua các dự án để xây dựng mô hình phát triển kinh tế với số tiền 2 tỷ
đồng (04 hợp tác xã). Từ chương trình hợp tác trung hạn giữa Quỹ Phát triển nông
nghiệp quốc tế (IFAD) với các tổ chức nông dân khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(MTCP2), tỉnh đã được Trung ương Hội Nông dân Việt Nam hỗ trợ xây dựng mô hình
sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ sản phẩm cho 02 HTX với
tổng số tiền 750 triệu đồng.
Về chính sách hỗ trợ đầu tư, công
nghệ: Hiện nay, đã hỗ trợ 07 HTX thực hiện mô hình ứng dụng công nghệ cao vào sản
xuất từ nguồn Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, kinh phí
2.100 triệu đồng. Thực hiện dự án liên kết theo chuỗi giá trị cho 122 HTX, tổng kinh phí 24.827 triệu đồng. Hỗ trợ kết cấu
hạ tầng các HTXX, tổng kinh phí 31.580 triệu đồng cho 14 HTX; hỗ trợ kinh phí xây dựng mô hình HTX kiểu mới, sản xuất gắn với chuỗi giá trị cho 14 HTX với tổng kinh phí thực hiện 3.856,6 triệu đồng;
cấp kinh phí hỗ trợ bảo hiểm cho các tổ chức, đơn vị sử dụng lao động là người
dân tộc thiểu số tại khu vực miền núi, đặc biệt khó khăn cho 21 HTX với tổng
kinh phí 332,9 triệu đồng; hỗ trợ kinh phí cho 01 HTX để đầu tư xây dựng điểm trưng bày, giới thiệu và
tiêu thụ nông sản với tổng số tiền 500 triệu đồng. Các chính sách hỗ trợ được
chi từ nguồn ngân sách tỉnh…
Do thực hiện tốt các chính sách trên,
đến nay toàn tỉnh có 674 tổ hợp tác, 368 HTX, 02 Liên hiệp HTX. Tổng số
thành viên tổ hợp tác là 7.670 thành viên; thành viên HTX là 3.713 và
số HTX thành viên của Liên hiệp HTX là 18 đơn vị. Tuy nhiên, theo Chương trình hành động số
15-CTr/TU, ngày 28/9/2022 của Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong
giai đoạn mới, Bắc Kạn phấn đấu đến năm
2030, toàn tỉnh có khoảng 1.000 tổ hợp tác, 500 HTX, 6 liên hiệp HTX; trên 60%
tổ chức kinh tế tập thể đạt loại tốt, khá. (Trong đó, có ít nhất 50% tham gia
liên kết theo chuỗi giá trị; có trên 55 HTX ứng dụng công nghệ cao vào sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp).
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính
sách phát triển KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, góp phần phát
triển số lượng và chất lượng các tổ hợp tác và HTX trên địa bàn tỉnh, cần thực
hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước về phát
triển KTTT, HTX. Lồng
ghép nhiệm vụ phát triển KTTT vào chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương, đơn vị, gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hai là,
tiếp tục rà soát các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển HTX, tổ hợp tác đã
ban hành để kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhằm bảo đảm đồng bộ, thiết
thực, phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của tỉnh. Triển
khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ của Trung ương. (Trong đó tập trung hỗ
trợ các nội dung, hạng mục cấp thiết đối với KTTT để nâng cao hiệu quả hỗ trợ).
Ba là,
tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước,
gắn nhiệm vụ phát triển KTTT,
HTX với công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị tại các đơn vị, địa phương. Quan tâm chất lượng hoạt động của tổ chức bộ máy, cán bộ trực tiếp tham mưu về lĩnh vực kinh tế tập thể từ tỉnh đến cơ sở.
Bốn
là, tăng cường khuyến khích các tổ chức KTTT, HTX chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từng bước
thực hiện chuyển đổi số nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường; chú trọng nâng cao
chất lượng dịch vụ, sản phẩm để xây dựng thương hiệu có uy tín trên thị trường;
tập trung phát triển các sản phẩm gắn với khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế
của địa phương, đặc biệt là lĩnh vực du lịch. Ứng dụng công nghệ, khoa học hiện
đại, đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hiệu quả
hoạt động của KTTT, HTX.
Năm là, cần chú trọng phát huy nguồn nội lực của HTX, tận
dụng tối đa nguồn hỗ trợ của Nhà nước, nguồn tín dụng, vốn doanh nghiệp và các
nguồn vốn hợp pháp khác để xây dựng hạ tầng cơ sở cho sản xuất và chế biến;
tăng cường liên kết với doanh nghiệp, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi
giá trị.
Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương
mại, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường cho sản phẩm của các tổ hợp tác, HTX, Liên hiệp HTX trên địa bàn.
Bảy
là, Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát; kịp thời
biểu dương, khen thưởng, nhân rộng các mô hình HTX, tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả… lan tỏa thông điệp tích cực, làm động lực để
người dân và các HTX khác mạnh dạn đầu tư chuyển đổi mô hình sản xuất kinh
doanh, nâng cao đời sống cho người dân.
ThS Trần Doãn Quyên
Trưởng khoa Nhà nước và pháp luật