VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ HAI THUỘC TÍNH CỦA HÀNG HOÁ VÀO NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT TẠI CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
Trong nghiên
cứu về quá trình sản xuất của tư bản, C.Mác bắt đầu từ việc phân tích hàng hóa.
Theo C.Mác: “Trong những xã hội do phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa chi phối, thì của cải biểu hiện ra là một “đống hàng hoá khổng lồ”, còn
từng hàng hoá một thì biểu hiện ra là hình thái nguyên tố của của cải ấy”. Từ việc phân tích hàng hoá với hai thuộc
tính cơ bản là giá trị sử dụng và giá trị, C.Mác chỉ rõ nguồn gốc của hai thuộc
tính ấy, làm cơ sở lý luận để đi tới phân tích nguồn gốc của giá trị thặng dư
được tạo ra trong quá trình sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Ngày nay, lý
luận của C.Mác về hai thuộc tính của hàng hoá vẫn giữ nguyên giá trị. Hiểu rõ
hai thuộc tính này, không chỉ giúp các nhà sản xuất nhận thức rõ hơn về sản
phẩm của mình mà còn mở ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình
sản xuất hàng hoá.
Trước hết, về mặt
khái niệm, hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán. Hai thuộc tính của hàng hoá bao gồm: giá
trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử
dụng của hàng hóa là công dụng của
hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng hóa nào cũng
có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó làm cho hàng hóa có
giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá
trình phát triển của khoa học - công nghệ và của lực lượng sản xuất nói chung. Xã
hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử
dụng ngày càng nhiều,
chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú.
Giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp ra nó mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi. Để trao đổi với nhau, trước hết các loại hàng hoá phải có giá trị sử dụng khác nhau. Đồng thời, chúng lại có thể trao đổi được với nhau vì giữa chúng tồn tại điểm chung: đều là sản phẩm của lao động, đều được kết tinh bởi lao động. Từ đó, ta thấy được thuộc tính thứ hai của hàng hoá là giá trị.
Giá
trị của
hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hànghóa kết tinh trong hàng hóa. Chất của giá trị là lao động. Lượng của
giá trị là sốlượng lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Giá trị
là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của
giá trị. C.Mác cũng chỉ rõ, sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là vì lao động sản
xuất hàng hóa có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể là
lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất
định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng
lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại
lao động cụ thể khác nhau, tạo ra những hàng hoá với giá trị sử dụng khác nhau.
Lao động trừu
tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ
thể của nó và quy về một thể chung đồng nhất, đó chính là sự tiêu phí sức lao
động nói chung (cả thể lực và trí lực) của người sản xuất hàng hóa. Lao động
trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
Giá trị sử dụng và giá trị
cùng tồn tại trong một hàng hoá và chúng làm tiền đề cho nhau, thể hiện tính
thống nhất của hai thuộc tính trong một hàng hoá. Song, giữa chúng có sự mâu
thuẫn: Thứ nhất, giá trị sử dụng nhiều hơn nhu cầu cần thiết thì không thực
hiện đầy đủ giá trị và ngược lại. Thứ hai, giá trị sử dụng thực hiện trong lĩnh
vực tiêu dùng, còn giá trị thực hiện trong lĩnh vực lưu thông. Những mâu thuẫn
ấy được biểu hiện cụ thể thành mâu thuẫn giữa người sản xuất và người tiêu dùng
hàng hoá. Người sản xuất hàng hóa tạo ra giá
trị sử dụng của hàng hoá nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà
là giá trị. Người sản xuất quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích
giá trị. Đối với người tiêu dùng hàng hoá, cái mà họ quan tâm là giá trị sử
dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng thì người
tiêu dùng phải trả lại giá trị cho người sản xuất ra hàng hóa.
Có thể thấy rằng, hai
thuộc tính của hàng hoá có tác động sâu sắc đến quyết định sản xuất của các nhà
sản xuất. Để sản xuất hàng hoá có giá trị sử dụng cao, nhà sản xuất cần phải
nghiên cứu nhu cầu của thị trường, từ đó cải tiến chất lượng sản phẩm. Đồng
thời, để tối ưu hóa giá trị, nhà sản xuất cần cân nhắc đến chi phí sản xuất và
giá cả trên thị trường. Từ lý luận của Các Mác về hai thuộc tính của hàng hoá, có
thể rút ra một số vấn đề vận dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất hàng hoá của các cơ sở sản xuất như sau:
Một là, nâng cao giá trị sử dụng của hàng hoá thông qua nghiên cứu
thụ trường; đổi mới công nghệ, kỹ thuật; nâng cao chất lượng sản phẩm. Để sản
xuất hàng hoá có giá trị sử dụng cao, nhà sản xuất cần thường xuyên nghiên cứu
thị trường. Việc nắm bắt xu hướng tiêu dùng, sở thích và nhu cầu của khách hàng
sẽ giúp nhà sản xuất điều chỉnh sản phẩm cho phù hợp, đáp ứng tối đa nhu cầu
của khách hàng. Việc đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tích cực ứng dụng công nghệ
mới, kỹ thuật tiên tiến sẽ giúp nhà sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, cải
tiến mẫu mã, kiểu dáng, tính năng sử dụng, làm tăng giá trị sử dụng cho hàng
hoá. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định đến giá trị sử dụng của hàng hoá.
Nhà sản xuất cần chú trọng kiểm soát chất lượng sản phẩm ở tất cả các khâu, từ
nguyên liệu đầu vào đến thành phẩm, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn, đáp ứng
nhu cầu của người tiêu dùng.
Hai là, tối ưu hóa chi phí sản xuất, giảm giá trị của hàng hoá nhằm
giúp giảm giá thành trong khi chất lượng hàng hoá không đổi, thậm chí có thể
được nâng cao hơn. Qua đó, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị
trường. Nhà sản xuất cần tối ưu hóa chi phí sản xuất. Điều này có thể đạt được
thông qua việc cải tiến quy trình sản xuất, sử dụng nguyên liệu hiệu quả và
giảm thiểu lãng phí. Nâng cao năng suất lao động thông qua việc áp dụng các
công nghệ mới, tự động hóa trong sản xuất; đầu tư đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng
cho người lao động; ứng dụng các phương pháp quản lý sản xuất tiên tiến.
Ba là, định lượng giá cả hàng hoá ở mức hợp lý. Giá cả là biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hoá trên thị trường. Cơ sở để xác định giá cả chính
là giá trị của hàng hóa. Nhà sản xuất cần định giá sản phẩm một cách hợp lý,
dựa trên chi phí sản xuất, giá trị sử dụng và tình hình cung cầu trên thị
trường. Việc định giá quá cao có thể làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm,
trong khi định giá quá thấp có thể dẫn đến thua lỗ.
Bốn là, đổi mới sáng tạo trong sản xuất. Đây là yếu tố không thể
thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện nay, giúp sản phẩm nổi bật trên thị
trường. Nhà sản xuất cần khuyến khích sự sáng tạo trong đội ngũ nhân viên, đầu
tư vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. Việc áp dụng công nghệ mới, phát
triển sản phẩm thân thiện với môi trường cũng sẽ tạo ra giá trị gia tăng cho
hàng hoá.
Như vậy, lý luận của C.Mác
về hai thuộc tính của hàng hoá không chỉ có giá trị lý thuyết mà còn mang lại
những gợi ý thực tiễn cho các nhà sản xuất ở mọi thời kỳ. Giải quyết tốt mối
quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá, không chỉ giúp các cơ sở sản xuất tồn
tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt mà còn góp phần vào sự
phát triển bền vững của nền kinh tế./.
Tác giả: ThS Nguyễn Hải
Yến
Giảng viên, Phòng QLĐT&NCKH