QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội được chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, đó là thời kỳ lịch sử đặc
biệt, chuyển từ xã hội nọ sang xã hội kia, từ chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại
nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng hãy còn
non yếu. V.I. Lênin khẳng định: cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì
cần phải có thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống, vì phải trải qua một cuộc đấu tranh khốc liệt, lâu dài mới
có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản
và tư sản.
Vận dụng quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh nhận định, một chế độ này biến đổi thành
một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài giữa cái xấu
và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữ cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái
đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái đang tiến bộ nhất
định thắng. Người chỉ rõ: “cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi
khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới
xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để
những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm.
Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng
quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Chúng ta phải
dần dần tập thể hóa nông nghiệp. Chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải
biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui
hạnh phúc”.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã xác định những nội dung chủ yếu
của thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trước hết cần phải làm tốt một số nội dung sau:
Về kinh tế,
theo Hồ Chí Minh là phải xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại; nhấn mạnh tăng năng suất lao động trên cơ
sở công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Người
chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Trong đó,
đặc biệt ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh và các hình thức sở hữu tập thể
của nhân dân lao động, làm nền tảng cơ sở kinh tế - xã hội cho chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh rất coi trọng mối quan hệ phân
phối và quản lý kinh tế, khẳng định chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng;
bên cạnh đó, chú ý thực hiện chính sách ưu tiên người có công với cách mạng,
tương trợ, giúp đỡ đồng bào có hoàn cảnh khó khăn. Đây là quan điểm quan
trọng, thể hiện tầm nhìn trong việc giải phóng sức sản xuất, tạo
động lực cho kinh tế phát triển, vận hành theo đúng quy luật tự
nhiên, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam.
Về chính trị,
trong thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, trước hết
phải giữ vững, phát huy và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Mối quan tâm hàng
đầu của Hồ Chí Minh là
làm sao cho Đảng thật trong sạch, không bị các bệnh quan liêu, xa dân, thoái
hoá biến chất, chủ nghĩa cá nhân làm
mất lòng tin của Nhân dân,
làm suy giảm năng lực lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước, đoàn thể từ Trung ương tới
cơ sở “vừa hồng, vừa chuyên”, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung
thành, công bộc tận tụy của dân. Đồng thời, nâng cao vai trò quản lý của Nhà
nước, xây dựng Nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả,
hiệu lực, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; thể chế hóa và hiến định
các quyền của công dân, kể cả quyền tham chính; việc thực thi quyền lực nhà
nước do dân ủy quyền của các quan chức, công chức phải được giám sát, kiểm
soát. Phát huy dân chủ, thực hành dân chủ rộng rãi, chăm lo dân sinh, nâng cao
dân trí, tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm việc
củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về văn hoá - xã hội,
Hồ Chí Minh khẳng định phải triệt để xóa bỏ nền văn hóa nô dịch, lạc hậu, xây
dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa,
xây dựng lối sống mới và con người mới xã hội
chủ nghĩa. Người nhấn mạnh vai trò của nền văn
hóa mới, văn
hóa soi đường cho quốc dân đi, đặc biệt nhấn mạnh xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa - đủ đức và tài. Đồng thời, đề
cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật trong phát triển đất
nước, coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo, sử dụng nhân tài trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Người khẳng định rõ con
đường phát triển của dân tộc Việt Nam: “chúng tôi xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong hoàn cảnh một nước vốn là thuộc địa, một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị
chiến tranh xâm lược tàn phá. Hoàn cảnh ấy, cố nhiên gây cho chúng tôi rất
nhiều khó khăn. Song, những thắng lợi bước đầu trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội cho phép chúng tôi tin tưởng chắc chắn ở sự cần thiết và khả năng
của một nước như nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách thắng lợi
không phải qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những thấm nhuần lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
mà còn vận dụng sáng tạo lý luận đó vào sự
lãnh đạo của Đảng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, góp phần
quyết định thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ, mở ra trang sử mới cho đất
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội IX của Đảng
(năm 2001) nêu rõ: con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta cũng nêu
rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân ta xây dựng là: dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đây là một quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo
ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, trước những năm đổi mới đã gặp phải không ít khó khăn, thách thức: đất
nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng trầm trọng, Liên Xô và phe các
nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ. Vận dụng tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước xác định rõ hơn những
chặng đường mà dân tộc phải trải qua trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục
đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới
đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta
ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Như vậy, bằng sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể từng giai
đoạn cách mạng của đất nước, Đảng ta đã xác định đúng đắn hơn những chặng đường
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó nhìn nhận rõ hơn về đặc điểm và
thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2011, t.11, tr.91-92
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, H.2011, t.14, tr.378-379.
CN. Nông Thị Thanh Hường
GV. Khoa Lý
luận cơ sở