trang chủ
GÓP PHẦN PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN LÝ LUẬN HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC

Lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác là cơ sở của học thuyết giá trị thặng dư. Với mục đích tìm ra quy luật vận động kinh tế của chủ nghĩa tư bản, học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác ngay từ khi mới ra đời đã vấp phải sự phê phán, phản bác của những người bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những người phê phán học thuyết giá trị thặng dư lại tiếp tục đưa ra những quan điểm phủ nhận, đòi xét lại học thuyết giá trị thặng dư thông qua phủ nhận lý luận hàng hoá sức lao động. Chúng ta cần nhận thức và luận chứng một cách khoa học để khẳng định lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.

Khi phân tích quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã chỉ ra rằng, giá trị hàng hóa trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm giá trị những tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng chuyển sang sản phẩm mới (giá trị cũ tái hiện - ký hiệu là c) và lượng giá trị mới do lao động sống thêm vào (giá trị mới tạo ra - ký hiệu là v + m), trong đó v bù lại tư bản khả biến đã ứng ra để trả tiền công (ngang với giá trị sức lao động) và m là giá trị thặng dư - phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động và bị nhà tư bản chiếm không. Nguồn gốc của giá trị thặng dư là do lao động sống của người công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất hàng hoá.

Tuy nhiên, những người phê phán, phản bác học thuyết giá trị thặng dư lại đưa ra một số luận điệu phủ nhận lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác như sau:

Một là, cho rằng giá trị thặng dư do lao động sống tạo ra chỉ đúng với trình độ phát triển thấp của chủ nghĩa tư bản - khi máy móc còn thô sơ và lao động thủ công, giản đơn chiếm ưu thế. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, việc ứng dụng máy móc, tự động hóa sản xuất khiến số lượng và cường độ của thể lực cần tiêu hao trong sản xuất ngày càng giảm đi. Máy móc đã được sử dụng phổ biến và thay thế cho sức lao động giản đơn, nguồn gốc của giá trị thặng dư là do máy móc chứ không phải do lao động sống tạo ra.

Hai là, giá trị thặng dư không phải do bóc lột sức lao động của công nhân, mà là phần của nhà tư bản được hưởng do công tổ chức, quản lý sản xuất...

Ba là, việc chủ nghĩa tư bản có bóc lột sức lao động của công nhân hay không không quan trọng bằng việc đời sống vật chất và tinh thần của công nhân trong xã hội tư bản đều được nâng cao. Ngoài tiền công, người lao động còn được hưởng thu nhập từ lợi tức cổ phần, phúc lợi xã hội, các tổ chức từ thiện và sự hỗ trợ của nhà nước tư sản.

Những luận điểm trên đều nhằm che giấu bản chất của giá trị thặng dư, qua đó làm mờ đi tính chất bóc lột trong sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Chúng ta cần nhận thức rõ những nội dung sau:

Thứ nhất, về nguồn gốc của giá trị thặng dư.

Kế thừa quan điểm của các nhà kinh tế trước đó, C. Mác đã phát hiện ra giá trị thặng dư và vạch rõ mối quan hệ giữa năng suất lao động, lao động thặng dư và giá trị thặng dư. Nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư là sức lao động của công nhân làm thuê, là sự tiêu dùng sức lao động kéo dài ngoài thời gian tái sản xuất ra giá trị của nó, có nghĩa là vượt quá thời gian lao động tất yếu để bù đắp lại giá trị sức lao động (được tính bằng tiền công).

Với sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại, những nhân tố chủ yếu trong sản xuất của xã hội công nghiệp (đất đai, lao động, nguyên liệu, vốn) dần trở thành thứ yếu, tri thức ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong nền sản xuất. Quá trình sản xuất hiện đại có thể không cần hoặc cần rất ít lao động sống trong một số bộ phận, nhưng giá trị do các xí nghiệp này tạo ra tăng gấp bội so với các xí nghiệp cổ điển dùng rất nhiều lao động sống. Sử dụng máy móc càng hiện đại thì năng suất lao động càng cao. Tuy nhiên, khi xét quá trình tạo ra và làm tăng giá trị của hàng hóa, những tư liệu sản xuất chỉ được coi là những lượng lao động đã vật hóa và giá trị của chúng được chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm mới mà không tăng thêm một lượng giá trị nào. Mặt khác, thông qua lao động của người công nhân trong quá trình sản xuất, không những tạo ra một lượng giá trị bù đắp giá trị sức lao động, mà còn tạo ra thêm một phần giá trị dôi ra. Phần ngày lao động trong việc tái sản xuất được C.Mác gọi là thời gian lao động cần thiết và thời kỳ thứ hai của quá trình lao động - thời kỳ trong đó người công nhân lao động quá những giới hạn của lao động cần thiết nhưng không tạo ra một giá trị nào cho người công nhân - là thời gian lao động thặng dư và lao động chi phí trong khoảng thời gian đó là lao động thặng dư.

Ngày nay, đồng thời với việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất, lao động thể lực của công nhân giảm đi, nhưng lao động trí tuệ phải bỏ ra nhiều hơn. Doanh nghiệp nào đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mới, làm tăng sức sản xuất của lao động, giá trị cá biệt của hàng hóa của doanh nghiệp ấy thấp hơn so với giá trị thị trường thì khi bán hàng hóa sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Máy móc không phải là nguồn gốc sinh ra giá trị siêu ngạch, mà chỉ là điều kiện để thu được lợi nhuận siêu ngạch thông qua cạnh tranh trên thị trường. Hệ thống cơ khí tự động chỉ là công cụ lao động, là tư bản bất biến. Nếu không có người sản xuất sử dụng máy móc trong quá trình sản xuất, thì nó chẳng những không có cách gì để chuyển dịch giá trị tự thân của mình.

Thứ hai, về công tổ chức, quản lý sản xuất.

Lý luận hàng hóa sức lao động của C. Mác đã đề cập đến vai trò của lao động quản lý, lao động kỹ thuật, lao động phức tạp. C.Mác giả định coi mọi loại sức lao động như là một sức lao động giản đơn và coi lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn. Định nghĩa về sức lao động của C.Mác cũng đã chỉ rõ, đó là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, tức là cả lao động cơ bắp và lao động trí tuệ. Trong điều kiện là doanh nghiệp nhỏ thì nhà tư bản vừa là chủ sở hữu tư bản, vừa là nhà quản lý, do đó nhà tư bản thu được cả giá trị thặng dư và tiền công của mình. Khi thành công ty lớn thì nhà tư bản đi thuê những người quản lý. Như vậy, không thể nhầm lẫn khoản thu nhập của nhà tư bản với tư cách là nhà quản lý với thu nhập của nhà tư bản với tư cách là chủ sở hữu. Sự nhầm lẫn này dẫn đến quan niệm thu nhập của nhà tư bản, sự giàu có của họ là do lao động quản lý đem lại. Cần phân biệt nếu tư bản là nhà quản lý, lao động trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư thì thu nhập của họ là tiền công. Lao động quản lý là lao động phức tạp, do đó thu nhập cao hơn lao động giản đơn.

Thứ ba, chủ nghĩa tư bản vẫn giữ nguyên bản chất bóc lột lao động làm thuê.

Cơ chế điều tiết phân phối giá trị thặng dư của các nhà tư bản được thực hiện thông qua thuế, quỹ phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp... Một bộ phận công nhân có cổ phần, là cổ đông trong các công ty cổ phần; họ đầu tư dưới hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm và thu được lợi tức cổ phần, lợi tức trái phiếu và lãi suất tiền gửi. Do đó, hiện nay, đời sống của người công nhân trong xã hội tư bản được nâng cao, thu nhập của họ không chỉ từ tiền công nhận được hằng tháng, mà còn có thêm các khoản khác như lợi tức cổ phần, tăng ca, trợ cấp khó khăn, thất nghiệp, phúc lợi xã hội... Tuy nhiên, tất cả những phần thu của người công nhân nhận được không bao giờ tỷ lệ thuận với sức lao động của chính bản thân bỏ ra; mặt khác, nhu cầu đòi hỏi của con người tất yếu ngày càng cao, theo đó, chi phí sẽ tăng, trong khi thu nhập không đáp ứng được.

Điều này được C.Mác chứng minh cả về lý luận và minh họa thực tế khi phân tích phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Ông chỉ rõ, nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu dựa trên ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tăng năng suất lao động, trước hết ở ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và những ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt, với một thời gian lao động không đổi, thời gian lao động tất yếu rút ngắn lại và thời gian lao động thặng dư tăng lên, do đó tăng khối lượng giá trị thặng dư tương đối, thậm chí có thể rút ngắn ngày lao động mà vẫn thu được khối lượng giá trị thặng dư nhiều hơn trước. Vì thế, đời sống của người lao động được cải thiện.

Ở các nước tư bản phát triển, mức sống của đại đa số công nhân được nâng cao hơn trước nhưng mức độ bóc lột lao động không công lại tăng hơn trước. Về phía nhà tư bản, vừa có thể sống xa hoa hơn trước, vừa có thể tích lũy nhiều hơn trước để tăng quy mô sản xuất. Giả sử khi năng suất lao động tăng, giá cả của các hàng hóa tiêu dùng đều giảm, mức tiền công giảm xuống. Người công nhân vẫn có thể mua được số hàng hóa như cũ, hoặc nhiều hơn trước, tức là tiền công thực tế tăng lên nhưng không cùng mức tăng lợi nhuận nên tiền công tương đối giảm xuống. Cho nên, tuy đời sống của công nhân được cải thiện, nhưng mức độ bóc lột lại tăng hơn trước, nên chênh lệch thu nhập giữa nhà tư bản và công nhân càng giãn rộng ra.

Mặt khác, xem xét quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày nay không chỉ bó hẹp trong quan hệ giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà còn phải xem xét cả sự thống trị, bóc lột của các nước phát triển đối với các nước kém phát triển và đang phát triển, thể hiện ở sự phân hóa hai cực giàu và nghèo của thế giới hiện nay.

Như vậy, thực chất, các quan điểm phản bác C.Mác tập trung vào lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác nhằm bác bỏ học thuyết giá trị thặng dư của ông. Tuy nhiên, những biểu hiện mới về bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng không thể phủ nhận, bác bỏ được lý luận hàng hóa sức lao động - cơ sở của học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Thực tế đã và đang chứng minh tính khoa học, tính đúng đắn của học thuyết giá trị thặng dư trong điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay. Cho dù khoa học và công nghệ trên thế giới ngày càng phát triển, việc áp dụng các thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại và những quan hệ kinh tế - xã hội rất phức tạp, đa chiều, làm cho không ít người lầm tưởng lý luận hàng hóa sức lao động và quy luật giá trị thặng dư đã biến mất, song như C.Mác đã vạch rõ, suy cho cùng, chỉ có lao động sống mới tạo ra lợi nhuận là giá trị thặng dư và sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản./.

 

ThS Nguyễn Hải Yến

Giảng viên, Phòng QLĐT&NCKH

Thống kê truy cập
  • Đang online: 2
  • Hôm nay: 132
  • Trong tuần: 1 177
  • Tất cả: 200602

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC KẠN

Trụ sở: Tổ 4, phường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn

Điện thoại: 02093.871.095, 02093.871.787, 02093.810.875

Email: truongchinhtri.tct@backan.gov.vn


Ghi rõ nguồn khi phát hành lại thông tin từ webstite này
Thiết kế bởi VNPT