GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG TÁC PHẨM “DI CHÚC” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Nhân văn, nhân ái là một giá trị
cao quý, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, được kế thừa và nâng lên một tầm cao mới đồng
thời, trở thành một nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chính là biểu hiện sinh động và cụ
thể nhất của chủ nghĩa nhân văn, của các giá trị cao đẹp nhất mà con người
hướng tới. Giá trị nhân
văn cao cả trong bản “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự quan tâm
sâu sắc của Người đến lợi ích của từng cá nhân, cộng đồng, sáng ngời lý tưởng
cao đẹp của người cộng sản chân chính. Đó còn là tư tưởng bao dung cao cả của Hồ Chí Minh, đối với Người tình yêu thương con người không phải sự ban ơn mà là tìm cách giúp đỡ để họ có hạnh phúc thật sự. Giá trị đó được thể hiện ở một số
nội dung sau đây:
Thứ nhất, “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tư tưởng “luôn xuất phát từ con người
và cuối cùng trở về con người với những khả năng thiên biến vạn hóa của nó”.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong “Di chúc”, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao, có
ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm là quan điểm vì con người và giải phóng con người, lòng tin vào con người, vào
cái thiện của con người, vào sức sống mãnh liệt
của dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định, toàn bộ sự
nghiệp cách mạng phải gắn với con người. Công việc đầu tiên là công việc đối
với con người, đó là mục tiêu quan trọng, lớn lao của cách mạng. Mong
muốn làm cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, Nhân dân ta được hoàn
toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành là ước nguyện lớn
nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chăm lo cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho Nhân dân là
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Người nhấn mạnh: “Đảng cần
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống của Nhân dân”.
Thứ hai, giá trị nhân văn cao cả của “Di chúc” không chỉ nằm
trong tình yêu thương con người chung chung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những đối tượng, giai cấp, tầng lớp
cụ thể cần phải chăm lo cả về vật chất và tinh thần, những công việc cần phải
làm để mọi người thật sự có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thấu hiểu những hy sinh, mất mát
to lớn của những người lính và gia đình họ trong chiến tranh, Người yêu cầu Đảng và Chính
phủ phải tìm mọi cách làm cho thương, bệnh binh có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải
mở những lớp dạy nghề thích hợp với
mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với những người đã hy sinh thì phải xây
dựng tượng đài, vườn hoa để ghi nhớ công ơn và đời đời giáo dục lòng yêu nước cho Nhân dân. Đối với cha mẹ, vợ con của thương
binh, liệt sĩ thì phải quan tâm, giúp đỡ không để họ bị đói rét.
Thứ ba, đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ,
lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, chủ nhân tương lai của đất nước, Người đặc biệt
quan tâm đến việc bồi dưỡng đạo đức, nâng cao tri thức của thanh niên, làm cho họ trở
thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người yêu cầu phải sửa đổi chế độ giáo
dục cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên, thanh niên, đào tạo
họ trở thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Người
chỉ rõ: “Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy
học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân
có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc”.
Thứ tư, Người đặc biệt quan tâm đến việc
giúp đỡ chị em phụ nữ để tiến tới sự bình đẳng thực sự cho phụ nữ. Điều đó thể hiện cách
nhìn sâu sắc, toàn diện về vấn đề giải phóng phụ nữ; động viên chị em phụ nữ
phấn đấu, vươn lên học tập để vừa giành được quyền bình đẳng, vừa đóng góp sức mình cho tương lai phát triển của đất nước.
Người yêu cầu: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi
dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc
lãnh đạo”.
Người cũng rất mong muốn bản thân phụ nữ cũng phải không ngừng vươn lên để tự giải phóng mình.
Thứ năm, giải quyết những vấn đề xã hội, chăm
lo cuộc sống cho những nạn nhân của chế độ cũ là một nỗi bận tâm lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Lòng nhân ái đó không phải là lòng thương hại mà là sự cảm thông sâu sắc với nỗi
khổ của nhân dân. Người tin rằng bất
cứ ai, dù là những người lầm đường, lạc lối, cũng tiềm ẩn cái tốt trong
mình, phải giúp đỡ họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Người nêu rõ: “Đối
với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc,
buôn lậu, v.v., thì Nhà nước vừa phải dùng giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ,
giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”.
Cuối cùng, ngay cả khi nói về việc
riêng tư cá nhân, “Di chúc” vẫn thể hiện tư tưởng hết lòng vì Nhân dân, luôn luôn nghĩ đến Nhân dân, chăm lo cho Nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người là vị lãnh tụ có triết lý sống
với tấm long bao dung, độ lượng và nhân từ; sự hy sinh cao
cả của người làm cách mạng với tinh thần, thái độ luôn lo trước nỗi lo của
thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ. Đến cuối đời, khi sắp vĩnh biệt thế
giới, Người vẫn nghĩ đến Nhân dân, không một chút yêu cầu và đòi hỏi cho riêng mình. Tư tưởng tất cả vì con người, coi
con người là trung tâm của sự nghiệp cách mạng, bản Di chúc tiếp tục là ngọn đèn soi sáng sự nghiệp xây dựng và phát triển con người
trong công cuộc đổi mới đất nước.
ThS, GVC Tô Lan Hương
Trưởng khoa, Khoa Lý luận cơ sở
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616.