trang chủ
GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG TÁC PHẨM “DI CHÚC” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Nhân văn, nhân ái là một giá trị cao quý, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, được kế thừa và nâng lên một tầm cao mới đồng thời, trở thành một nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chính là biểu hiện sinh động và cụ thể nhất của chủ nghĩa nhân văn, của các giá trị cao đẹp nhất mà con người hướng tới. Giá trị nhân văn cao cả trong bản “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự quan tâm sâu sắc của Người đến lợi ích của từng cá nhân, cộng đồng, sáng ngời lý tưởng cao đẹp của người cộng sản chân chính. Đó còn là tư tưởng bao dung cao cả của Hồ Chí Minh, đối với Người tình yêu thương con người không phải sự ban ơn mà tìm cách giúp đỡ để họ có hạnh phúc thật sự. Giá trị đó được thể hiện ở một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tư tưởng luôn xuất phát từ con người và cuối cùng trở về con người với những khả năng thiên biến vạn hóa của nó[1]. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong “Di chúc”, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao, có ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm là quan điểm vì con người và giải phóng con người, lòng tin vào con người, vào cái thiện của con người, vào sức sống mãnh liệt của dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định, toàn bộ sự nghiệp cách mạng phải gắn với con người. Công việc đầu tiên là công việc đối với con người, đó là mục tiêu quan trọng, lớn lao của cách mạng. Mong muốn làm cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, Nhân dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành là ước nguyện lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chăm lo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Người nhấn mạnh: Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân[2].

Thứ hai, giá trị nhân văn cao cả của “Di chúc” không chỉ nằm trong tình yêu thương con người chung chung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những đối tượng, giai cấp, tầng lớp cụ thể cần phải chăm lo cả về vật chất và tinh thần, những công việc cần phải làm để mọi người thật sự có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thấu hiểu những hy sinh, mất mát to lớn của những người lính và gia đình họ trong chiến tranh, Người yêu cầu Đảng và Chính phủ phải tìm mọi cách làm cho thương, bệnh binh có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với những người đã hy sinh thì phải xây dựng tượng đài, vườn hoa để ghi nhớ công ơn và đời đời giáo dục lòng yêu nước cho Nhân dân. Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ thì phải quan tâm, giúp đỡ không để họ bị đói rét.

Thứ ba, đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ, lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng, chủ nhân tương lai của đất nước, Người đặc biệt quan tâm đến việc bồi dưỡng đạo đức, nâng cao tri thức của thanh niên, làm cho họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người yêu cầu phải sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên, thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Người chỉ rõ: Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc[3].

Thứ, Người đặc biệt quan tâm đến việc giúp đỡ chị em phụ nữ để tiến tới sự bình đẳng thực sự cho phụ nữ. Điều đó thể hiện cách nhìn sâu sắc, toàn diện về vấn đề giải phóng phụ nữ; động viên chị em phụ nữ phấn đấu, vươn lên học tập để vừa giành được quyền bình đẳng, vừa đóng góp sức mình cho tương lai phát triển của đất nước. Người yêu cầu: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo[4]. Người cũng rất mong muốn bản thân phụ nữ cũng phải không ngừng vươn lên để tự giải phóng mình.

Thứ năm, giải quyết những vấn đề xã hội, chăm lo cuộc sống cho những nạn nhân của chế độ cũ là một nỗi bận tâm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lòng nhân ái đó không phải là lòng thương hại mà là sự cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của nhân dân. Người tin rằng bất cứ ai, dù là những người lầm đường, lạc lối, cũng tiềm ẩn cái tốt trong mình, phải giúp đỡ họ trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Người nêu rõ: “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước vừa phải dùng giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện[5].

Cuối cùng, ngay cả khi nói về việc riêng tư cá nhân, Di chúc vẫn thể hiện tư tưởng hết lòng vì Nhân dân, luôn luôn nghĩ đến Nhân dân, chăm lo cho Nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người là vị lãnh tụ có triết lý sống với tấm long bao dung, độ lượng và nhân từ; sự hy sinh cao cả của người làm cách mạng với tinh thần, thái độ luôn lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ. Đến cuối đời, khi sắp vĩnh biệt thế giới, Người vẫn nghĩ đến Nhân dân, không một chút yêu cầu và đòi hỏi cho riêng mình. Tư tưởng tất cả vì con người, coi con người là trung tâm của sự nghiệp cách mạng, bản Di chúc tiếp tục là ngọn đèn soi sáng sự nghiệp xây dựng và phát triển con người trong công cuộc đổi mới đất nước.

  ThS, GVC Tô Lan Hương

 Trưởng khoa, Khoa Lý luận cơ sở



[1] Phạm Văn đồng: “Bản Di chúc bất hủ sáng ngời tính thời sự”, Báo Nhân Dân, ngày 19/5/1997.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616-617

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616

Thống kê truy cập
  • Đang online: 2
  • Hôm nay: 157
  • Trong tuần: 1 202
  • Tất cả: 200627

TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BẮC KẠN

Trụ sở: Tổ 4, phường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn

Điện thoại: 02093.871.095, 02093.871.787, 02093.810.875

Email: truongchinhtri.tct@backan.gov.vn


Ghi rõ nguồn khi phát hành lại thông tin từ webstite này
Thiết kế bởi VNPT