BẢO TỒN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH BẮC KẠN HIỆN NAY
Phát
huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số tỉnh Bắc Kạn hiện nay là một trong những
nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa và đóng góp to lớn trong
xây dựng nền văn hoá Việt Nam. Là một tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ lệ đồng bào dân
tộc thiểu số chiếm hơn 88% dân số của tỉnh gồm 6 dân tộc chủ yếu như: Tày, Nùng,
Dao, Mông, Hoa, Sán Chí. Các dân tộc thiểu số luôn đoàn kết, có bản sắc văn hoá
truyền thống phong phú, đa dạng, có lòng yêu nước, cần cù và sáng tạo trong lao
động sản xuất; luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, quy ước, hương ước của địa
phương. Đặc biệt, mỗi dân tộc thiểu số với những nét đặc sắc riêng biệt từ ngôn
ngữ, trang phục, phong tục tập quán, tín ngưỡng… đã góp phần tạo nên một bức tranh
văn hoá đa dạng, giàu bản sắc cho văn hoá địa phương. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ, việc
bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số tại tỉnh Bắc
Kạn không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hóa - tinh thần, mà còn đóng vai
trò then chốt trong sự phát triển bền vững của địa phương. Trong những năm qua, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn
đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với công tác bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá đặc sắc của đồng bào
dân tộc thiểu số, tăng cường đoàn kết dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho Nhân dân. Kết quả cụ thể:
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo: Ban Thường vụ Tỉnh uỷ thường xuyên chỉ đạo, theo dõi, thăm nắm công tác bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hoá, giá trị văn hoá các dân tộc thiểu số. Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, trong đó có: Nghị quyết số
29-NQ/TU, ngày 16 tháng 12 năm 2019 về bảo tồn và phát huy giá trị các di sản
văn hóa lịch sử trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2020 - 2030, trong đó xác định:
Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống phải phù hợp với tình
hình thực tế từng địa bàn, từng dân tộc. Chú trọng phát
huy vai trò của các chủ thể văn hóa trong phát triển văn hóa truyền thống của các
dân tộc; tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số;
khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới; Quyết định số 1243/QĐ-UBND,
ngày 06 tháng 7 năm 2020 ban hành Kế hoạch triển khai Đề án “Bảo tồn, phát huy
trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”;
Quyết định số 1489/QĐ-UBND, ngày 11 tháng 8 năm 2021 ban hành Kế hoạch triển
khai Chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam,
giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 367/QĐ-UBND, ngày 08
tháng 3 năm 2022 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Bảo tồn và phát
huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển
du lịch giai đoạn 2021 - 2030”,...
Công tác bảo tồn, phát triển
văn hóa truyền thống vật thể và phi vật thể của đồng bào dân tộc thiểu số. Việc xây dựng và triển khai các chương trình, đề án, quy
hoạch nhằm tăng cường quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể đạt được nhiều kết quả tích cực. Nhiều di tích lịch sử được
trùng tu, tôn tạo, bảo vệ; các di sản văn hóa phi vật thể như lễ hội, nghề thủ
công truyền thống, nghệ thuật dân gian được phục hồi và duy trì thông qua các
chương trình nghiên cứu và hỗ trợ nghệ nhân. Nhiều di sản được khai thác thành
sản phẩm du lịch, góp phần quảng bá hình ảnh địa phương, tạo việc làm và tăng
thu nhập cho người dân. Đến nay, tỉnh có 29 Câu lạc bộ Hát then - Đàn tính được
xây dựng và có quyết định thành lập. Hằng năm, tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác bảo tồn di sản văn hoá; tập
huấn truyền dạy văn hoá phi vật thể quốc gia cho đồng bào dân tộc thiểu số,… Đặc
biệt năm 2024, tỉnh đã tổ chức thành công Tuần Văn hoá - Du lịch Bắc Kạn gắn với
ngày hội múa bát của dân tộc Tày với quy mô 1.000 người, tạo ấn tượng sâu sắc trong
Nhân dân và du khách.
Về kết quả triển khai thực hiện Đề án "Bảo tồn, phát
huy trang phục truyền thống các dân tộc thiếu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 - 2030: Năm 2023, tỉnh đã thực hiện hỗ trợ
gian hàng và bán sản phẩm về trang phục truyền thống gắn với du lịch thuộc tại
Hợp tác xã Toàn dân (xã Nam Cường, huyện Chợ Đồn) và tại Homestay Ba Be Retreat
(thôn Bản Cám, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể). Năm 2024, tổ chức lớp tập huấn về phương
pháp bảo tồn, truyền dạy và phát huy trang phục truyển thống của người Tày tại
thôn Khuân Bang, xã Như Cố, huyện Chợ Mới.
Công tác bảo tồn, khôi phục các làng nghề truyền thống
được chú trọng thực hiện. Hiện nay, tỉnh có 01 làng nghề được công nhận là làng
nghề truyền thống (Làng nghề Miến dong Côn Minh, huyện Na Rì), cơ quan chuyên
môn đang chỉ đạo, hướng dẫn lập hồ sơ công nhận làng nghề đối với các ngành nghề
có tiềm năng để công nhận (gồm Làng nghề men lá Khuổi Po, xã Sơn Thành, huyện
Na Rì; Làng nghề sản xuất cơm lam, bánh gio, bánh củ chuối xã Hòa Mục, huyện Chợ
Mới và Làng nghề sản xuất Chè Shan tuyết xã Yên Hân, huyện Chợ Mới). Cùng với
đó, ngành văn hóa, thể thao và du lịch đang nghiên cứu phát triển các sản phẩm
du lịch đặc trưng gắn với các ngành nghề truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm,
các món ẩm thực dân tộc… Công tác kiểm kê, nhận diện di sản văn hoá phi vật thể
được thực hiện thường xuyên. Đến nay, nhận diện được 204 di sản văn hoá phi vật
thể. Cuối năm 2024, Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch đã lựa chọn 06 di sản văn hoá
phi vật thể tiêu biểu, lập hồ sơ đề nghị Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thẩm định,
phê duyệt và quyết định đưa vào Danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia gồm
(Hát Pá Dung, lễ Cấp sắc của người Dao; lễ Kỳ Yên, múa bát, hát ru của người Tày;
hát Sli của người Nùng) nâng tổng số di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia của
tỉnh lên 20 di sản.
Tổ chức, phát huy các lễ hội truyền thống tiêu biểu trên
địa bàn tỉnh gắn với hoạt động du lịch như lễ hội Lồng Tồng, Hội Mù Là, Chợ tình
Xuân Dương,… Các lễ hội được tổ chức thường xuyên là hoạt động cần thiết đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần, tín ngưỡng, là môi trường quan trọng cho
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc. Ngoài
ra, các làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc và trò chơi dân gian cũng được lựa chọn
để giới thiệu, quảng bá tại các tỉnh, thành phố trong cả nước thông qua các hoạt
động sự kiện như hội nghị quảng bá, xúc tiến du lịch; Ngày hội văn hóa dân tộc
Mông, Dao; Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch các tỉnh vùng Đông Bắc; Chương
trình Du lịch qua những miền di sản Việt Bắc…
Về xây dựng các
thiết chế văn hóa. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao
trong những năm qua được quan tâm, đầu tư xây dựng về cơ sở vật chất, trang
thiết bị phù hợp với điều kiện, nguồn lực thực tế của địa phương. Qua đó, bảo tồn và
phát huy văn hoá truyền thống, cải thiện đời sống tinh thần cho Nhân dân. Tỉnh đã
hoàn thiện việc mua sắm, cấp sản phẩm văn hoá cho đồng bào dân tộc thiểu số, các
xã khu vực III, các trường dân tộc nội trú thuộc Dự án tăng cường đầu tư xây dựng,
phát triển hệ thống thiết chế văn hoá cho 108 xã với kinh phí 206.000.000 triệu
đồng. Xây dựng được 18 câu lạc bộ Văn hoá - Thể thao - Làng văn hoá; 30 đội văn
nghệ cơ sở, tổ chức các buổi tuyên truyền lưu động, biểu diễn văn nghệ phục vụ Nhân
dân nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của địa phương nhất là
khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số của tỉnh hiện nay cũng
còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Nguồn văn hóa vật thể và phi
vật thể của một số dân tộc thiểu số đang đứng
trước nguy cơ bị lãng quên do thế hệ nghệ nhân dân gian đã cao tuổi, còn thế hệ
trẻ chưa có đủ nhận thức để tự hào về vốn văn hóa bản địa của chính dân tộc
mình, khó khăn trong công tác truyền dạy. Việc bảo
tồn, phát huy các di sản văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số chưa gắn kết chặt
chẽ đồng bộ với phát triển du lịch, một số giá trị văn hoá như ngôn ngữ, chữ viết, nghề thủ công
truyền thống của đồng bào một số dân tộc đang dần mai một, việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hoá các dân tộc chưa được khơi dậy, chưa phát huy tính chủ động,
tích cực, tự giác của các chủ thể văn hoá dân tộc.
Để bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số
tỉnh Bắc Kạn trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, triển khai có
hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số trên các phương tiện thông tin đại
chúng, kết hợp đa dạng các hình thức tuyên truyền trực quan như biểu diễn nghệ
thuật, tranh cổ động, pa nô, khẩu hiệu, áp phích, mạng xã hội,… ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Tuyên truyền, nâng cao ý thức trân trọng giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc, để đồng bào dân tộc thiểu số có trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn giá
trị văn hóa truyền thống và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa hiện đại.
Hai là, kết hợp các nguồn lực đầu tư bảo tồn và phát huy giá trị
các di sản văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó sử dụng hiệu quả nguồn lực
theo Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới. Đầu tư
trang thiết bị cho hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở; đẩy mạnh và nâng
cao hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Ba là, phát huy vai trò tích cực của chủ thể văn hóa - đồng bào dân tộc
thiểu số, trong quá trình lao động, sản xuất, trong sinh hoạt, các chủ thể là tác giả của kho tàng văn hóa dân gian
như: dân ca, dân vũ, dân nhạc; thủ công truyền thống; ẩm thực truyền thống; tín
ngưỡng; lễ hội…
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tổ chức các chương trình, sự
kiện, giao lưu, trình diễn, giới thiệu di sản văn hóa; nâng
cao năng lực, trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ hoạt động
trong lĩnh vực di sản văn hóa. Có
những chính sách quan tâm, thích đáng đến đội ngũ cán bộ làm công tác văn
hóa và cán bộ quản lý văn hóa, các nghệ sĩ, người đang thổi hồn giữ gìn, bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số./.
CN Nông Thị Thanh Hường
Giảng viên, Khoa Lý luận cơ sở